- RTCCD | Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Phát triển Cộng đồng - https://rtccd.org.vn -

Đánh giá kết quả thực thi Luật Phòng chống Tác hại của Thuốc lá sau gần 10 năm

Sau một thập kỷ Luật PCTHTL ra đời, đến nay công tác phòng chống tác hại thuốc lá cũng đạt được nhiều khả quản, tỷ lệ hút thuốc lá đã giảm. Theo dõi công tác PCTHTL từ những ngày đầu, xin TS Tuấn đánh giá về những thành tựu này không?

TS. Trần Tuấn: Chưa thể nói là “đạt được nhiều khả quan”, khi tỷ lệ hút thuốc trong dân chúng chỉ giảm khoảng 1-2% sau 9 năm. Theo kết quả điều tra tại 34 tỉnh, thành phố năm 2020, so với năm 2015, tỷ lệ hút thuốc chung ở người trưởng thành giảm từ 22,5% xuống 21,7%, tức chỉ có 0,8% trong 5 năm qua. Cả thập kỷ qua, mà tỷ lệ nam giới trưởng thành hút thuốc lá mới giảm từ xấp xỉ 47% xuống 45%, trong khi, tỷ lệ hút thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng ở thanh thiếu niên và phụ nữ, lại gia tăng.Thống kê của “Quỹ Phòng chống tác hại của thuốc lá”, Bộ Y tế, năm 2015, tỷ lệ hút các sản phẩm thuốc lá điện tử, nung nóng là 1,1% dân chúng; Đến năm 2019, tỷ lệ này đã là 2,6% ở thanh, thiếu niên trong độ tuổi từ 13 đến 17 trên cả nước, và với riêng học sinh thành thị tỷ lệ lên tới 3,4%. Với bao sức người sức của và sự lớn mạnh của hệ thống truyền thông cả chính thống và mạng xã hội như vậy, thì những con số phản ánh tỷ lệ hút thuốc lá nêu trên, rõ ràng không thể nói là “khả quan”, khi Việt Nam vẫn trong nhóm 15 nước có số người hút thuốc lá cao trên thế giới. Bởi thế, càng không thể nói những đạt được trong công tác phòng chống tác hại của thuốc lá suốt 9 năm qua là “thành tựu”. Hãy chĩ coi đấy là những đạt được ở mức khiêm tốn, đáng khích lệ, thế cũng là nhiều rồi.

Theo ông, mặt tích cực nhất là điểm gì?

TS. Trần Tuấn: Bộ Y tế đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện các công tác phòng chống tác hại thuốc lá, đi theo các khuyến cáo của Công ước Khung về Kiểm soát thuốc lá của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO FCTC) mà Việt Nam đã tham gia năm 2004. Bộ Y tếđã: (1)  ra được Luật phòng chống tác hại của thuốc lá (năm 2012) và văn bản pháp luật hướng dẫn thực thi các điều trong Luật; (2) thành lập được Quỹ PCTH thuốc lá – thể hiện cam kết chính trị của Nhà nước ta về thiết lập nguồn kinh phí để thực hiện hoạt động PCTH thuốc lá khi tham gia Công ước khung về kiểm soát thuốc lá và cam kết về mục tiêu thiên niên kỷ và mục tiêu phát triển bền vững; (3) có thực hiện nhiều hoạt động truyền thông về tác hại thuốc lá vào dịp 31/5 hàng năm, “ngày thế giới không khói thuốc”!; (4) Các tổ chức xã hội phản biện và vận động chính sách công được tạo điều kiện tham gia, hợp tác với Bộ Y tế, Bộ Tài Chính, Bộ Thông tin Truyền thông, các ban Đảng và một số ủy ban của quốc hội để thúc đẩy thực thi luật phòng chống tác hại của thuốc lá,

Tác hại của thuốc lá người dân ai cũng biết nhưng có những người vẫn suy nghĩ rằng “bỏ thuốc”là bỏ hết niềm vui, hay không phải ai hút thuốc cũng bị ung thư. Theo ông, các Ban chi đạo phòng chống tác hại thuốc lá cần làm gì khác để người dân thay đổi quan niệm này?

TS. Trần Tuấn: Quan niệm trên là sai, quá rõ ràng rồi. Nhưng muốn người dân thay đổi được quan niệm trên, thì phải chặn nguồn “truyền thông ngụy khoa học” duy trì tình trạng trên! Không khó để nhận ra ai “đưa ra” và ai cố gắng định hình trong xã hội quan niêm trên, ai có lợi khi dân chúng còn duy trì những suy nghĩ trên. Đó chính là ngành công nghiệp thuốc lá!

Chính ngành công nghiệp thuốc lá ngày đêm không ngừng nghỉ dùng mọi chiêu thức tác động lên hệ thống truyền thông, cả chính thống và mạng xã hội, để đưa vào tai, vào mắt, vào đầu người dân thông điệp “tốt”, “có lợi”, “cho việc sử dụng thuốc lá như thế! Và cũng ngày đêm tìm cách đẩy ra khỏi đầu người dân những thông điệp rằng “thuốc lá có hại”. Vậy Ban chỉ đạo phòng chống tác hại thuốc lá cần làm gì?

Nhiều lắm! Phải làm vô số hoạt động, và làm liên tục, bền bỉ, mạnh mẽ, tương xứn với đối tượng “ngành công nghiệp thuốc lá” đã, đang và sẽ tiếp tục làm!

Nghĩa là, chừng nào Ban Chỉ đạo thuốc lá coi phòng chống tác hại của thuốc lá thực chất là “cuộc chiến” đương đầu với ngành công nghiệp thuốc lá, thì chừng ấy, sẽ khắc chuyên tâm vào tìm hiểu nhận ra các “can thiệp” của ngành công nghiệp này. Khi đã phơi bày được “sự can thiệp” của ngành công nghiệp thuốc lá, khắc tìm ra biện pháp “hóa giải”.
Lúc ấy, sẽ không còn những suy nghĩ sai lầm trên trong dân!
Những “lỗ hổng”trong công tác phòng chống tác hại thuốc lá hiện nay như thế nào?

Có nhiều lỗ hổng lắm, và mức độ nghiêm trọng khác nhau. Lỗ hông lớn nhất, nghiêm trọng nhất, đến từ quan điểm và nhận thức tầm chiến lược.

Tổ chức bảo vệ sức khỏe thế giới WHO đã xác định “ngành công nghiệp thuốc lá” có mâu thuẫn lợi ích đối kháng với sức khỏe cộng đồng, không thể “hợp tác cùng phát triển”. Nội dung của công ước khung phòng chống tác hại của thuốc lá, nêu rõ: GIỮA LƠI ÍCH CỦA NGÀNH CÔNG NGHIỆP THUỐC LÁ VÀ LỢI ÍCH CỦA CHÍNH SÁCH Y TẾ CÔNG CỘNG CÓ MÂU THUẪN CƠ BẢN VÀ KHÔNG THỂ DUNG HÒA”!
“Do sản phẩm của họ gây chết người, nên không được tạo điều kiện khuyến khích việc thành lập hay hoạt động kinh doanh của ngành công nghiệp thuốc lá. Bất kỳ cách đối xử ưu đãi nào dành cho ngành công nghiệp thuốc lá đều sẽ xung đột với chính sách kiểm soát thuốc lá”

Bởi thế, trong lời mở đầu cho Công ước Khung của WHO về kiểm soát thuốc lá, đã nêu rõ: Các bên tham gia công ước “cần được cảnh báo về bất kỳ nỗ lực nào của ngành công nghiệp thuốc lá nhằm phá hoại hay làm suy giảm những nỗ lực kiểm soát thuốc lá và sự cần thiết phải hiểu biết tường tận về những hoạt động có tác động tiêu cực đối với những nỗ lực kiểm soát thuốc lá của ngành công nghiệp này”.

Kiểm điểm lại, sẽ thấy, chính phủ có những “dễ dãi” với ngành công nghiệp thuốc lá trong suốt hai thập kỷ qua, ngay cả khi đã có luật phòng chống tác hại của thuốc lá. Chẳng hạn như để nhân sự lãnh đạo Bộ Công Thương đến từ lãnh đạo doanh nghiệp thuốc lá; Để hiệp hội thuốc lá cả quốc tế và trong nước gửi thư hoặc có các hoạt động hội thảo, hội nghị vận động chính sách công, hay tổ chức các sư kiên xây dựng “trách nhiệm xã hội” của ngành công nghiệp thuốc lá trong dân chúng!

Và lỗ hổng quan điểm, nhận thức chiến lược sai lầm đó đã dẫn tới:

Và hàng loạt các lỗ hổng chiến lược khác, ở những lĩnh vực cụ thể của công tác phòng chống tác hại của thuốc lá. Chẳng hạn:

Các chuyên gia cho rằng tăng Thuế thuốc lá tuyệt đối có thể giảm đáng kể số người hút thuốc có thu nhập thấp và ngăn chặn được nhiều thanh niên hút thuốc hơn?

TS. Trần Tuấn: Tôi hoàn toàn đồng ý với ý kiến này.

Thuế và giá là giải pháp có hiệu quả cao trực tiếp làm giảm tiêu dùng thuốc lá so với các giải pháp phòng chống tác hại thuốc lá khác, và mang ý nghĩa của giải pháp phòng bệnh đã được Tổ chức Y tế Thế giới và Ngân hàng Thế giới khuyến cáo các nước áp dụng.

Việt Nam hiện có mức giá và thuế thuốc lá ở mức thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Tỷ lệ thuế thuốc lá tình theo giá bán lẻ chỉ chiếm 36,7% (số liệu năm 2018), bằng một nửa so với các nước ASEAN (như Singapore: 67,5%; Thái lan: 73%..).

Tôi ủng hộ đề xuất rằng bên cạnh điều chỉnh tăng thuế suất tỷ lệ đang áp dụng, phải áp thêm thuế tuyệt đối, với mức tối thiểu từ 2500 đ/ bao (vào năm 2022) tăng dần tới 5000đ/bao (năm 2024). Theo tính toán, giải pháp này sẽ giúp giảm được 675.000 nghìn người hút thuốc- phần nhiều là thanh thiếu niên và người thu nhập thấp, đạt được mục tiêu giảm tiêu dùng hút thuốc, chưa kể thu ngân sách từ thuế tăng thêm 18 nghìn tỷ.

Theo TS Tuấn, những thách thức của công tác phòng chống tác hại thuốc lá hiện nay và biện pháp cần giải quyết như thế nào?

TS. Trần Tuấn: Thách thức lớn nhất đó là trong hệ thống chính phủ, đặc biệt từ Bộ Công Thương, vẫn để tồn tại sự can thiệp của các doanh nghiệp thuốc lá và rộng ra, ngành công nghiệp thuốc lá cà trong nước và quốc tế, làm suy yếu các chính sách kiểm soát thuốc lá tại Việt Nam, đặc biệt liên quan tới thuế thuốc lá,cảnh báo sức khỏe hình ảnh trên bao thuốc lá, quảng cáo, khuyến mại, tài trợ của các công ty thuốc lá. Nghiêm trọng không kém, là sự chậm trể trong ra chính sách ngăn chặn sự xâm nhập thị trường Việt nam của thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng trong suốt chục năm qua, khiến gia tăng nhanh chóng tỷ lệ thanh thiếu niên và phụ nữ dùng hai loại sản phẩm này nói riêng và thuốc lá nói chung.

Đặc biệt trong bối cảnh COVID-19, ngành CNTL đã can thiệp sâu hơn, đặt chính phủ vào tình trạng vi phạm nghiêm trọng công ước khung WHO-FCTC khi để ngành công nghiệp thuốc lá đánh bóng hình ảnh của mình, bằng hoạt động tài trợ trang thiết bị y tế phòng chống COVID-19, hay khi chính phủ tiếp nhận kiến nghị của các doanh nghiệp và hiệp hội thuốc lá hoãn việc tăng thuế TTĐB và hoãn sửa đổi Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, vì lý do “doanh nghiệp thuốc lá gặp khó khăn trong dịch COVID-19”.

Biện pháp giải quyết chung là quán triệt lại quan điểm của chính phủ phòng chống tác hại của thuốc lá theo hướng tuân thủ thực hiện đúng công ước khung quốc tế WHO-FCTC đã ký. Hành động cụ thể chính xếp theo thứ tự ưu tiên bao gồm:

1- Đưa vào thực hiện nội dung điều 5.3 trên toàn hệ thống làm chính sách phòng chống tác hại của thuốc lá, tạo cơ sở rộng ra cho triển khai minh bạch và giải trình trách nhiệm trong phát triển chính sách phòng chống các bệnh không lây nhiễm, và góp phần cải thiện tính minh bạch và giải trình trách nhiệm của hệ thống nhà nước nói chung.

2- Hỗ trợ và thúc đẩy mạnh mẽ sư tham gia của các tổ chức xã hội, các tổ chức khoa học ngoài nhà nước, phi vụ lợi với vai trò hỗ trợ Chính phủ thực thi đầy đủ Công ước khung về kiểm soát thuốc lá của Tổ chức Y tế Thế giới mà Việt Nam đã ký vào 2004 trong các hoạt động sau:

TS.BS. Trần Tuấn
(với sự hỗ trợ của Nguyễn Hồng Hạnh, Trung tâm RTCCD, Liên minh Phòng chống Bệnh không lây nhiễm Việt Nam (NCDs-VN))